Tìm gì
image
  • imageBảo hiểm Luật sư
  • imageChăm sóc sức khoẻ
  • imageDich vụ Du Lịch
  • imageDịch thuật
  • imageDịch vụ doanh nghiệp
  • imageDu học Định cư
  • imageGia sư, Giữ trẻ
  • imageHoạ sĩ Nhiếp ảnh
  • imageLàm đẹp
  • imageMô giới nhà đất
  • imageNhà hàng & Catering
  • imageSửa chữa nhà
  • imageTài chính Kế toán
  • imageTổ chức sự kiện
  • imageVận chuyển
  • imageÔ tô cơ khí
Ở đâu
image
image
Britannia_out1
Picture of LouisaPh

LouisaPh

Bảo tàng Mỏ Britannia tại Squamish

Một trong những điểm du lịch lí tưởng khi đến Squamish không thể thiếu đó chính là “Britania Mine Museum”, Bảo tàng Mỏ Britannia. Đây là mỏ đồng lớn nhất của Đế Quốc Anh thời bấy giờ kể từ ngày bắt đầu hoạt động năm 1904 đến năm 1974. Trong suốt 70 năm tồn tại, mỏ Britannia đã có nhiều câu chuyện lịch sử ly kì cần được kể lại. 

Britannia Beach nằm trong lãnh thổ của dân tộc Squamish, nơi người dân thường có văn hóa sống dọc theo bờ sông trong hàng nghìn năm. Việc này giải thích được vì sao các khu làng dọc theo bờ phía đông của Howe Sound lại thưa dân hơn. Địa hình phần bờ đông của Howe Sound ở gần những con dốc cạnh bờ biển nên khu vực này không phù hợp cho các làng lớn. Trái lại, phía Bắc lại có con sông màu mỡ thích hợp hơn để sinh sống. 

Bằng chứng để thấy rõ nhất là ngôi làng ở Britannia Beach đến từ A Sto’lo Coast Salish Historical Altas. Đây là có thể điểm dừng chân trên tuyến đường giao thương giữa dân tộc Squamish và Sto’lo. Và tại đây, khu mỏ đồng lớn nhất của Đế Quốc Anh được xây lên. Với hơn 60.000 người sống và làm việc ở đây trong 70 năm qua, có nhiều sự kiện lịch sử đã xảy ra. Đã có công trình tiên phong về công nghệ khai thác quặng – tốc độ sản xuất cao nhất khiến nơi đây trở thành mỏ đồng lớn nhất lúc bấy giờ ở Đế quốc Anh, những câu chuyện về những nhà quản lý độc tài và nhân từ, những trận hỏa hoạn, lũ lụt, và vụ đá lỡ bi thảm và nhiều hơn thế nữa. 

Mỏ Britannia bắt đầu như nào? 

Hầu hết mọi người lái xe ngang qua Britinnia Beach thường không biết độ lớn của Mỏ Britinnia  rộng đến nhường nào. Vào đỉnh điểm của dây chuyền sản xuất, cuối năm 1920 đến đầu năm 1930, mỏ đã cung cấp tới 17% lượng đồng cho thế giới. Cho đến khi mỏ đóng cửa, hầm mỏ đã được đào gần 210km và trải dài hơn 1750 mét theo chiều dọc (từ độ cao 1100 mét ở vùng núi Britannia đến độ sâu khoảng 650 mét dưới mực nước biển).

Trong một thế kỷ – và hơn thế nữa – trước đây ở BC, những nhà thám hiểm nghiệp dư chỉ đến để tìm vàng. Với công nghệ thời đó, những gì họ tìm thấy trên bề mặt của trái đất là tất cả những gì họ tin là quý giá. Tại Britannia, quặng bề mặt được tìm thấy ở cao trên núi, ít có người qua lại. Vì vậy, có lẽ nhờ may mắn mà quặng đã được tìm thấy.

Việc phát hiện ra quặng được công nhận bởi Tiến sĩ A. A. Forbes, một bác sĩ địa phương của First Nations. Chuyện kể rằng, ông đã tìm thấy quặng trên bề mặt sau khi bắn một con hươu. Và cũng là lần đầu tiên, ông là người nhận ra tầm quan trọng của sự phát hiện này. Tuy vậy, ông không phải là người đầu tiên tìm thấy quặng ở đó. Một ngư dân địa phương tên là Granger đồng thời cũng tìm thấy được quặng. Năm 1888, Granger gặp Tiến sĩ Forbes tại Hopkins Landing trên Sunshine Coast để đòi 400 đô la, đổi lấy những mẫu quặng mà ông đã tìm thấy.

 

Năm 1931, Tiến sĩ Forbes đã được thành phố Vancouver phỏng vấn và đây là tài liệu tốt nhất về những gì đã xảy ra vào năm 1888.

“Granger đã cho tôi xem một miếng đá cằn cỗi, trên đó có clorua đồng hoặc nitrat. Tôi nói với anh ấy rằng miếng đá này không đáng lắm, nhưng có thể có một số mẫu đồng tốt hơn trong vùng xung quanh nơi anh ấy tìm thấy. Anh ta rất nóng lòng muốn mua một chiếc thuyền với 400 đô la của mình đẻ đi đến Alaska.”

“Tôi sẽ chỉ cho bạn chỗ có giá 400 đô la,” Granger đề xuất.

“Chà, tôi nói với anh ấy rằng nếu tôi không thấy khoáng sản tốt hơn những gì anh ấy đã chỉ cho tôi thì tôi không thể cho anh ấy bất cứ thứ gì. Nhưng nếu chúng tôi tìm thấy khoáng sản tại chỗ đó, tôi sẽ đưa anh ấy 400 đô la. Vài ngày sau, chúng tôi lên đường và đặt chân ở phía bên kia của sườn núi phía bắc nơi đổ bộ hiện tại. Anh ấy không rành rỏi về cánh rừng này nên chúng tôi đã có một khoảng thời gian khủng khiếp ở trên sườn núi đó. Anh ấy đưa tôi gần đến đỉnh núi và chỉ cho tôi vị trí mà anh ấy đã đập vỡ tảng đá.

“Có một vài nơi không có tuyết, nhưng đêm đó chúng tôi đã ngủ trên đỉnh. Sáng hôm sau, tôi bắt đầu thăm dò quanh đỉnh, đi dần xuống thung lũng nhưng không thành công. Khoảng một tiếng rưỡi trước khi mặt trời lặn, tôi nhìn thấy chú hươu nổi tiếng (the Buck). Tôi liền bắn vào cổ nó và nó đạp liên tục trước khi ngã xuống. Tôi phát hiện nó đã đạp lên rêu và bụi ra khỏi tảng đá và đã có một số biểu hiện của khoáng sảng hiện rõ ràng trên bề mặt. Đêm đó, trời trở nên quá tối để làm bất cứ điều gì nữa. Đến sáng hôm sau, tôi đã mang theo một viên thuốc nổ và thấy rằng mình đã kiếm được một vị trí tốt. Sau đó, tôi trả cho anh ta 400 đô la với điều kiện là anh ta sẽ không được nói chuyện này với bất kỳ ai ở Howe Sound hoặc Vancouver. Anh ấy đồng ý và trong vài ngày sau, anh ấy đã mua chiếc thuyền của mình và đi đến Alaska.

“Vì vậy,” Tiến sĩ Forbes tiếp tục, “người đầu tiên phát hiện ra đồng ở Britannia là ông Granger, người thứ hai là ông Buck (con hươu) và người thứ ba là Tiến sĩ Forbes.”

“Khi tôi tìm thấy khoáng sản trên núi Britannia và trong nhiều năm sau đó, việc để quyền sỡ hữu không của riêng ai cho khu này vì thứ mọi người tìm kiếm thời điểm đó chính là vàng. Tôi đã hoàn toàn đúng khi để nó mở cửa vì không ai làm phiền nó trong vòng mười năm. Tôi đã đến thăm tài sản này mỗi mùa hè trong tám năm, làm việc trên đó một tuần và không bao giờ thấy một con người nào trên hoặc gần núi đó ngoại trừ khi ông Granger ở bên cạnh tôi.”

Năm 1893, Tiến sĩ Forbes (người có quan tâm đến khai thác mỏ ở hai địa điểm khác) đã tìm kiếm sự trợ giúp của chính phủ để phát triển Britannia hoặc một trong hai khu đất còn lại (Đảo Texada và Mount Elphinstone). The Ministry of Mines (Bộ Mỏ cung cấp địa chất) đã không tìm thấy lợi ích khoáng sản thương mại nào ở Britannia. Và như vậy, tiến sĩ Forbes không còn hứng thú với tài sản này và trong vài năm, nên dường như không có sự phát triển nào được thực hiện.

Mười năm sau, khi những tuyên bố đầu tiên được đưa ra và các nhà đầu tư đã tham gia. Mỏ Britannia mở cửa vào năm 1904 để khai thác và chế biến quặng. Đến năm 1905 mỏ đã đi vào hoạt động. Kể từ năm mở cửa, Mỏ Britannia và cộng đồng xung quanh khu vực đã phát triển nhanh chóng. Năm 1907, hệ thống bưu điện được mở cửa cho người dân trong thị trấn. Mỏ Britannia không trở thành một khu mỏ quan trọng cho đến khi nhà máy thứ hai được mở vào năm 1916 và có công suất chế biến đến 2000 tấn quặng mỗi ngày. Trong bảy mươi năm tiếp theo, thị trấn Britannia Beach, khu thị trấn phía trên Mount Sheer và các trại khai thác đã phát triển lên tới 60.000 người từ hơn 50 quốc gia khác nhau.

Mặc dù mỏ đã trải qua nhiều trận bom khác nhau, hay thảm họa môi trường và đi qua nhiều quyền sở hữu, nhưng nó vẫn là trụ cột của Sea To Sky Corridor cho đến khi mỏ bị đóng cửa vào năm 1974. Vào đầu những năm 1900, có rất ít kiến thức về hậu quả môi trường và sinh thái mà mỏ sẽ gây ra cho hệ sinh thái của Howe Sound và hậu quả của nước độc hại đối với khu vực xung quanh.

Mỏ Britannia và hệ thống xử lí nước

Khi Mỏ Britannia đang trong thời kì thành công nhất, mỏ cũng đã gây ra tổn thất nghiêm trọng đến hệ sinh thái do hiện tượng rò rỉ đá axit (Acid Rock Drainage-ARD). Do đó, nước ngầm địa phương, các con suối và nước biển gần đó của vịnh Howe đã chịu những thiệt hại kéo dài suốt nhiều thập kỷ. Để giải quyết vấn đề này, một chiến dịch làm sạch triệt để đã được triển khai. Năm 2002, Golder Associates đã dẫn đầu trong việc làm sạch đất ô nhiễm, và nhà máy xử lý nước của EPCOR, thành lập từ năm 2005, đã xử lý nước thải từ mỏ, đưa nước sạch được xả vào vịnh Howe. Sự thành công này đã mang cuộc sống bình thường của ngôi làng trở lại với các vùng nước sạch xung quanh mỏ, bao gồm cả vịnh Howe.

Bảo tàng Mỏ Britannia có những gì để trải nghiệm?

  1. Triễn lãm
    Britannia cung cấp cho du khách rất nhiều hoạt động dder trải nghiệm. Từ các chuyến tham quan dưới lòng đất đến việc tự mình khám phá lịch sử xã hội của Britannia Beach. Khuôn viên rộng 10 mẫu là một triển lãm thú vị mang lại cơ hội đặc biệt để tiếp cận một phần quan trọng của lịch sử Canada.
  2. Chuyến thám hiểm dưới lòng đất
    Khám phá con đường hầm chuyên dùng vận chuyển quặng trên đoàn tàu mỏ, đây là một cơ hội phi thường để thấy rõ cuộc sống của những công nhân trong những mỏ đồng lớn nhất trên thế giới!
  3. BÙM! Trải nghiệm đa giác quan
    Đây là một trải nghiệm đa giác quan đầy kịch tính, với âm thanh và hiệu ứng đặc biệt bên trong nhà máy lịch sử Số 3. BOOM! đưa tất cả 20 tầng trở lại với cuộc sống hiện tại, chia sẻ câu chuyện hấp dẫn của nhà máy và tiếng gầm vang vọng của nó.
  4. Câu chuyện về Britannia
    Hiểu được cuộc sống như thế nào tại Britannia Beach bên trong những bức tường của một tòa nhà di sản được phục hồi một cách tỉ mỉ – đầy những câu chuyện tuyệt vời và những bức ảnh lưu trữ. Tìm hiểu về lễ hội hàng năm của Nữ hoàng Đồng và được ngồi trên ngai vàng để có một bức ảnh tuyệt vời.
  5. Trải nghiệm quá trình lọc “vàng”
    Đừng quên tham gia vào hoạt động lọc vàng và đá quý. Nếu bạn tìm được, bạn sẽ được giữ nó! Các thùng lọc vàng được đặt ở các độ cao khác nhau. Như vậy, cả trẻ em và người lớn đều có thể tham gia và thử vận may của mình. Đây là cách thú vị và dễ dàng để lọc vàng.

  6. Phòng thí nghiệm Terra
    Khám phá hành trình cải thiện môi trường của Britannia và tầm quan trọng của các phương pháp bền vững trong khai thác mỏ ngày nay.
  7. Xe tải vận chuyển khổng lồ
    Bạn sẽ có cơ hội được chụp ảnh với chiếc xe tải cao 20 feet và nặng hơn 800.000 pound, chiếc xe tải này rất LỚN! Bạn sẽ biết mình đã đến Bảo tàng khi thấy chiếc xe tải mỏ “Siêu TO” này đậu ngay bên cạnh đường cao tốc Sea-to-Sky.
  8. Trung tâm Beaty Lundin Visitor
    Mỗi chuyến đi đến Bảo tàng Mỏ Britannia đều bắt đầu tại Trung tâm Beaty Lundin Visitor. Các màn hình thông minh trong triễn lãm sẽ mang lại cho bạn cái nhìn mới về ý nghĩa của ngành mỏ đối với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Hãy ghé thăm Mining Hall of Fame (Hội viên Danh dự của Nhà mỏ) để hiểu rõ về phía sau của ngành mỏ ở Canada.
  9. Sân chơi gia đình
    Niềm vui gia đình là ưu tiên hàng đầu của Bảo tàng Mỏ Britannia, vì vậy các em nhỏ có thể thư giãn tại hòn cát khổng lồ hoặc làm thuyền trưởng trên con tàu tại khu vui chơi . Khu vực này nằm ngay bên cạnh quầy bán đồ ăn nhẹ với nhà vệ sinh gần đó.
  10. Các công trình lịch sử
    Khám phá mười bảy công trình gốc, bao gồm nhà thờ công nghiệp biểu tượng Mill số 3, một Di tích Lịch sử Quốc gia, trải dài trên không gian rộng lớn của khu vực di sản công nghiệp này.
  11. Các loạt phim đoạt giải
    “Bất kỳ thứ gì không được trồng, đều được khai thác.” Đừng quên xem Groundbreaking, bộ phim đoạt giải thưởng của chúng tôi, theo dấu vết di sản khai thác mỏ của Britannia và quá trình làm sạch môi trường thành công của nó.
  12. Quầy lưu niệm
    Được coi là một trong những cửa hàng lưu niệm đẹp và đa dạng nhất tại Vùng biển Sky Corridor, Company Store cung cấp một loạt các sản phẩm bao gồm trang sức, sách, hàng quà tặng, đồ chơi và các tác phẩm thủ công.

  13. Phòng trưng bày khoáng vật
    Khoáng vật có đủ màu sắc, hình dạng và kích thước. Hãy ngắm nhìn các vật mẫu quyến rũ của bảo tàng: vàng và khoáng vật lấp lánh – bao gồm azurite, selentite, các mẫu nước nhiệt núi lửa và tất nhiên, Vàng Canada!
  14. Các hiện vật độc đáo
    Bảo tàng đầy những hiện vật lịch sử, từ hình ảnh lưu trữ và hiệu ứng, đến trang thiết bị công nghiệp đã được bảo quản nguyên vẹn. Tìm hiểu cuộc sống như thế nào của những người làm việc tại mỏ, và các gia đình ở Britannia Beach và Mt. Sheer.
  15. Quán cà phê Chatterbox
    Đây là địa điểm lý tưởng để thưởng thức cà phê tại vùng biển đến Sky. Quán phục vụ cà phê espresso, súp và bánh sandwich. Quán nằm ngay cạnh lối vào Bảo tàng. Thẻ thành viên sẽ được giảm giá 15% khi mua đồ tại đây.

Vé vào cồng Bảo tàng Mỏ Britannia 

Vé vào cửa Bảo tàng Mỏ Britannia bao gồm một chuyến tham quan dưới lòng đất, trưng bày lịch sử, cách lọc vàng, giới thiệu bộ phim được đánh giá cao, Ground Breaking, và các địa điểm thu hút mới nhất của bảo tàng. 

Các chuyến tham quan được tổ chức thường xuyên trong ngày và bắt đầu từ 10:30 sáng. VIỆC ĐẶT VÉ THAM QUAN TRƯỚC KHI ĐẾN THAM QUAN ĐƯỢC KHUYẾN NGHỊ CAO. Vé sẽ không được đảm bảo còn cho khách đến mà không đặt trước.

 

Những câu truyện hình thành nên Britannia

Cho những bạn vẫn chưa bao giờ đặt chân đến Mỏ Britannia, đây là một cái nhìn thoáng qua về thế giới cuốn hút của con người, khu vực, sự kiện và đồ vật đã hình thành nên Mỏ Britannia.

  1. Sự rò rỉ đá axit (Acid Rock Drainage-ARD)
    Sự rò rỉ đá axit (ARD) là quá trình tự nhiên xảy ra với khoáng sulphide như pyrite và chalcopyrite tại mỏ Britannia. Nước và oxy từ mưa và không khí tác động lên các khoáng sản, tạo ra axit sulfuric và kim loại hòa tan. ARD đã xảy ra từ khi có khoáng sulphide tiếp xúc với bề mặt, nhưng việc đào hầm đào đã  làm tăng diện tích bề mặt phản ứng. Nước từ mỏ chảy vào Howe Sound và gây ô nhiễm. Từ năm 2005, EPCOR BritanniaMine Water Treatment Plant (Nhà máy Xử lý Nước Mỏ Britannia) đã xử lý ARD bằng cách bắt nước ra khỏi mỏ và loại bỏ axit và kim loại hòa tan.
  2. Bunkhouses (nhà tầng)
    Các trại và thị trấn ở Britannia Beach thường có các nhà gỗ chứa hàng nghìn chiếc giường. Đây là nơi ở của những người đàn ông độc thân và những người đã kết hôn nhưng phải rời xa gia đình để đi làm. Mỗi phòng chỉ có sức chứa hai người, và chi phí ăn ở vào năm 1950 là 2,30 đô la mỗi ngày. Trong nhiều năm, công nhân phải tự mang chăn ra, đó là một cuộc sống hơi cô lập, đặc biệt là ở các trại đặt. Công nhân có thời gian rảnh rỗi thường ở trong các câu lạc bộ và thường đi về thành phố vào ngày nghỉ. Mặc dù luôn có tiệc chào mừng, bọn họ tại khu nhà gỗ thường cảm thấy mình không được chào đón, và những người đàn ông đã kết hôn thường xem họ là mối đe dọa cho hôn nhân của mình.
  3. Thị trấn công ty (company town)
    Britannia Beach là một thị trấn thuộc sở hữu của công ty, nơi công nhân đều được thuê bởi công ty mỏ, bao gồm cả các công việc như đầu bếp, giáo viên, y tá và nhân viên cửa hàng. Trong lịch sử của mỏ, mặc dù chỉ có hai chủ sở hữu trong những năm qua nhưng cuộc sống trong thị trấn này thường phụ thuộc nhiều vào Giám đốc điều hành của công ty. Trong những thời kỳ khó khăn như Great Depression (Đại suy thoái) hoặc khi nhà máy bị cháy, cả cộng đồng phải đoàn kết để vượt qua.
    Hai chủ sở hữu:

    • Howe Sound Company và subsidiary Britannia Mining & Smelting Company (1904 – 1963), Anaconda
    • Copper Company (1963 – 1974)

  4. Thảm họa
    Cộng đồng mỏ Britannia đã trải qua nhiều bi kịch, bao gồm một vụ lở đất lớn và một vụ hỏa hoạn bí ẩn. Vào năm 1915, một trận lở đá và tuyết đã gây ra thảm họa tại trại Jane, khiến 56 người thiệt mạng. Sau đó, vào năm 1921, một đám cháy phá hủy Nhà máy 2, nhưng không gây thiệt hại về sinh mạng. Trong cùng năm, một con đập tự nhiên bị vỡ, gây ra lũ lụt và phá hủy hàng chục ngôi nhà và làm thương nhiều người. Tuy nhiên, qua những bi kịch này, cộng đồng đã đoàn kết lại và vượt qua những thách thức lớn nhất. 

    • Jane Slide (1915, 56 người chết)
    • Lũ Britannia Beach (1921, 35 người chết)
    • Hỏa hoạn Mill 2 (1921, 0 người chết)
  5. Đa dạng sắc tộc
    Công nhân tại Mỏ Britannia đến từ nhiều quốc gia khác nhau, với hơn 50 quốc gia được ghi nhận. Đa số là người Canada và châu Âu. Trước khi mỏ được thành lập, khu vực Howe Sound là nơi sinh sống của bộ tộc Squamish Nation. Về tôn giáo, các tôn giáo chính ở mỏ là Tin lành và Công giáo. Đây mỏ có nhà thờ hòa giáo đầu tiên ở Canada, chứa cả Tin lành và Công giáo trong cùng một tòa nhà.
  6. Froth Flotation (Phương pháp tuyển nổi)
    Phương pháp tuyển nổi (froth flotation) được sử dụng để chiết xuất quặng từ đá phế thải. Tại Mỏ Britannia, quặng và đá sẽ được nghiền mịn, kết hợp với nước và các chất hóa học khác, sau đó không khí được thổi vào để tạo ra bọt. Các hạt quặng bám vào bọt và nổi lên, trong khi đó các hạt phế thải sẽ chìm xuống. Quặng được tách ra từ bọt và được sử dụng trong quá trình sản xuất. Britannia là một trong những công ty đầu tiên ở Bắc Mỹ áp dụng máy tuyển nổi vào năm 1912 và tiếp tục phát triển các công nghệ liên quan. Họ cũng phát triển hệ thống ‘Britannia Deep Cell’ trong những năm 1920/1930, giúp họ đạt được tỷ lệ phục hồi quặng trên 90%.

     
  7. Vàng
    Mặc dù mỏ chủ yếu khai thác đồng, Britannia cũng sản xuất vàng dưới dạng “tự nhiên” hoặc “miễn phí” – vàng được tìm thấy dưới dạng kim loại trong đá. Bạc cũng được khai thác theo cùng một cách. Sau khi quặng được xử lý bằng phương pháp tuyển nổi, những gì còn lại được truyền qua các khay lưới để tách vàng. Công việc này thường chỉ cần một công nhân tin cậy còn các công nhân khác thì bị cấm vào khu vực này. Tổng cộng, mỏ đã khai thác được 500.000 ounce vàng.
  8. Đường cao tốc
    Mặc dù Britannia khá gần với Vancouver, nhưng nơi này đã trải qua sự cô lập lâu dài cho đến khi đường sắt được xây vào năm 1956 và đường cao tốc được xây vào năm 1958. Trước đó, duy nhất cách để đến đây là bằng tàu hơi nước. Một con đường đến Squamish được xây dựng vào năm 1947, và con đường giữa Britannia Beach và Mount Sheer hoàn thành vào năm 1953. Sự cô lập này đã tạo ra các liên kết giữa người dân với nhau rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi đường cao tốc đến, nhiều cư dân cũ cho biết đó là sự khởi đầu của sự suy tàn cho cuộc sống đoàn kết tại Britannia. Mỏ đã đóng cửa trong một thời gian ngắn và dù cho đã mở lại một phần, sức hút của thành phố lớn và ngành du lịch  làm cho cộng đồng không bao giờ hoàn toàn phục hồi lại sự đoàn kết như trước đây.
  9. Incline Railway
    “Incline Railway” được gọi là ‘Skip’ đã là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày tại Britannia Beach và Mount Sheer. Sau khi vượt qua 347 bậc thang từ bãi biển lên đến đáy của Skip, hành khách lên tàu sẽ trải qua hành trình dốc lên 1400 feet với tốc độ 7½ dặm một giờ. Skip ban đầu được sử dụng để vận chuyển quặng đến nhà máy, nhưng sau khi có đường hầm được đào dưới lòng đất, tàu đã bắt đầu chở khách. Chỉ có một vụ tai nạn nghiêm trọng xảy ra khi các xe chở quặng mất kiểm soát và va vào tầngnhà máy, nhưng may mắn chỉ có một người bị thương nhẹ.
  10. Công nhân Nhật Bản
    Câu chuyện về cư dân Nhật tại Britannia là một hình ảnh đau lòng về sự phân biệt đối xử tại BC. Dù đã làm việc tại Britannia từ những năm đầu, người Nhật không được phép làm việc dưới lòng đất theo luật lệ của chính phủ. Thay vào đó, họ làm công việc trên đường sắt nhưng lại được trả ít hơn và phải sống trong điều kiện sống tách biệt. Mặc dù đã có một cuộc đình công vào năm 1931, điều kiện làm việc của họ vẫn không được cải thiện đáng kể. Tình bạn cá nhân được tạo ra, nhưng sự phân biệt đối xử vẫn rất phổ biến. Sau cuộc tấn công Pearl Harbour vào năm 1941, tỉnh BC đã di tản người Nhật trong bán kính 100 dặm từ bờ biển và gửi họ đến khu vực nội địa sống trong điều kiện khốn khó. Cộng đồng Nhật tại Britannia cũng phải trải qua sự đau đớn này. Cho đến năm 1949, họ mới được phép sống và làm việc tự do ở bất kỳ nơi nào họ chọn.
  11. Kilowatt
    Trong thế kỷ 20, khi các khu vực khác sử dụng than đốt để tạo ra điện, Britannia lại tận dụng dãy núi dốc và nguồn nước dồi dào của BC để tạo ra điện thủy điện. Ba đập – Utopia, Park Lane và Tunnel – được xây dựng ở vùng núi cao để thu thập nước mưa và nước chảy từ tuyết khi tan. Nước từ mỗi đập được dẫn xuống các nhà máy điện ở Mount Sheer và Beach. Bằng cách sử dụng bánh xe nước Pelton, điện đã được tạo ra hiệu quả. Nhà máy điện tại Mount Sheer cũng sản xuất không khí nén cho hệ thống thông gió của mỏ. Việc cung cấp điện tự đủ ở đây đảm bảo rằng tất cả các nhà có thể dễ dàng tiếp cận năng lượng với giá rẻ, làm cho cư dân hưởng lợi từ mức giá điện thấp.
  12. Hệ thống launders
    Hệ thống launders tại Britannia được thiết kế để loại bỏ đồng từ nước mỏ để bán. Nước mỏ ở đây chứa đồng tan nhiều do ARD tạo ra. Nước chảy từ các cổng mỏ được dẫn vào các rãnh bê tông, nơi có sắt và thiếc. Từ đó phản ứng hóa học tự nhiên xảy ra, làm cho đồng kết tủa ra và phủ lên các mảnh kim loại. Sau đó, các mảnh được khuấy động để thu đồng. Hệ thống launders giúp giảm ARD bằng cách loại bỏ đồng tan, nhưng không làm giảm độ axit của nước. Sau khi mỏ đóng cửa, hệ thống launders ở bãi biển vẫn tiếp tục hoạt động cho đến năm 1979.
  13. Làng Mount Sheer
    Mount Sheer là một ngôi làng nằm phía trên Britannia Beach, được gọi là Townsite. Nơi này trở thành trung tâm khai thác mỏ trong khi Britannia Beach thì chủ yếu xử lý quặng. Với độ cao 600 mét và cách Britannia Beach 4,5km, thị trấn sống trong cô đơn và khó khăn, đặc biệt vào mùa đông khi núi che mặt trời. Trước khi có đường vào Britannia Beach vào năm 1953, việc đi lại đến Vancouver đã mất nhiều giờ. Bản thân thị trấn có đầy đủ tiện nghi từ bệnh viện, trường trung học đến sân bóng, sân tennis, thư viện và hồ bơi ngoài trời. Sự cô đơn đã tạo ra tinh thần đoàn kết mạnh mẽ, nhưng thị trấn đã bị bỏ hoang vào năm 1958 khi mỏ tạm thời đóng cửa, và sau đó đã bị phá hủy hoàn toàn vào những năm 1960. Ngày nay, phần ít còn lại của thị trấn đã bị thiên nhiên chiếm lại.
  14. Di tích lịch sử quốc gia
    Nhà máy 3 của Britannia, còn được biết đến với tên gọi là Concentrator, đã được công nhận là Di tích Quốc gia vào năm 1988. Việc này được thực hiện bởi Chính phủ Liên bang thông qua Cơ quan Parks Canada để ghi nhận sự quan trọng sâu sắc của nó đối với Canada. Nhà máy đã đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Canada bằng cách sản xuất lượng lớn quặng đồng trong gần bảy mươi năm. Nhà máy được xây dựng vào năm 1923 và được công nhận về mặt lịch sử và kiến trúc. Sau khi mỏ đóng cửa vào năm 1974, nhà máy bắt đầu suy tàn, nhưng sau một cuộc tái xây dựng với trị giá 5 triệu đô la hoàn thành vào năm 2007, nó đã trở thành biểu tượng của Britannia Beach một lần nữa. Để biết thêm thông tin, truy cập vào trang web www.theconcentrator.ca.
  15. Quặng
    Britannia tập trung chủ yếu vào việc khai thác quặng. Tại đây, đồng, kẽm, chì, cadmium, vàng và bạc được chiết xuất từ các loại quặng khác nhau được khoan, cho nổ và chiết xuất từ một lớp mỏ giàu ở dãy núi Britannia. Sau khi chiết xuất, quặng được vận chuyển đến Britannia Beach để được xử lý trong nhà máy. Với hệ thống đường hầm dài 210 km và độ cao dọc 1750 mét, việc vận chuyển quặng là một công việc lớn. Tại nhà máy, quặng trải qua một loạt các máy nghiền và máy mài trước khi trải qua quá trình lọc bọt nổi. Cuối cùng, khi rời khỏi Britannia Beach, quặng đã trở thành nồng độ chứa các khoáng sản có giá trị.
  16. Dịch bệnh
    Sau khi Thế chiến I kết thúc vào năm 1918, đại dịch cúm ‘Tây Ban Nha’ đã lan rộng toàn cầu, gây ra một bi kịch cho hộ dân và mỏ Britannia. Sự lây lan nhanh chóng của virus đã khiến nhiều người chết trong những nhà tầng chật chội. Trong hai tháng, công việc tại mỏ bị tạm dừng và những người khỏe mạnh phải dành thời gian chăm sóc người bệnh. Không có phương pháp điều trị cụ thể, nên mọi người chỉ có thể nhận lời khuyên uống whisky và ăn súp. Mọt ngời dân địa phương gốc Trung, Yip Bing, đã trở thành anh hùng khi giao súp hàng ngày cho cộng đồng. Ban đêm, cáp treo được sử dụng để chở các thi thể xuống chờ tàu hơi đến Vancouver.
  17. Nữ hoàng (Đồng)
    Mỗi năm từ năm 1926 đến năm 1966, cộng đồng Britannia Beach đã tổ chức lễ đăng quang Nữ hoàng Đồng. Đây một phần của lịch sự kiện xã hội phong phú của họ. Nữ hoàng được bầu bởi học sinh trường địa phương và được đưa ra trong một buổi lễ trọng đại, thu hút sự tham gia của cả cộng đồng vì đây là sự kiện lớn của năm. Vương miện và ngai vàng của nữ hoàng sẽ được làm từ đồng sản xuất địa phương. Sự kiện này là một trong những hoạt động cộng đồng hàng năm, bao gồm cả các buổi tiệc Giáng sinh, cuộc thi cấp cứu và “Ngày của Các Thợ mỏ” (Miners’ Days).
  18. Hoạt động giải trí
    Các dịch vụ giải trí tại mỏ Britannia là thứ mà cư dân địa phương tận dụng nhiều nhất. Đa dạng các tiện nghi như bể bơi, sân tennis, sàn trượt, rạp chiếu phim, sân nhảy, quán bi-a, sân bóng và nhiều hơn nữa đã tạo ra một lịch trình giải trí phong phú. Ngoài ra, còn xuất hiện nhiều bữa tiệc như vũ hội, kịch và các buổi hòa nhạc diễn ra thường xuyên. Hai sự kiện chính là lễ đăng quang “Nữ hoàng Đồng” hàng năm và các cuộc thi “Ngày của Các Thợ mỏ”. Công ty cung cấp đủ tiện ích và các sự kiện giải trí để thu hút công nhân và gia đình đến với mỏ, câu lạc bộ cộng đồng cũng tổ chức nhiều sự kiện và cuộc thi.
  19. An toàn trong khu mỏ
    Đảm bảo an toàn là ưu tiên hàng đầu trong các mỏ đá hiện đại tại Canada, nhưng điều này đã không được áp dụng trong quá khứ. Mỏ Britannia trước đây đã có một lịch sử về chất lượng an toàn kém. Các tai nạn thường xuyên xảy ra trong những năm 1920 và 1930, các nỗ lực để cải thiện an toàn đã gặp rất nhiều khó khăn. Các biện pháp khác như các khóa học sơ cứu, thưởng an toàn và cuộc thi đều không đạt kết quả mong muốn. Trong đó, một phần của vấn đề là do tỷ lệ nghỉ việc cao, gây ra sự thiếu kinh nghiệm trong lao động. Môi trường làm việc không an toàn cũng là một trong những nguyên nhân khiến chất lượng an toàn kém. Tuy nhiên, sau khi “Union” (Hội đồng Công đoàn) được thành lập vào năm 1943, tình hình an toàn đã được cải thiện đáng kể. Đến năm 1956, Mỏ Britannia đã được tôn vinh vì đã cải thiện độ an toàn đảm bảo nhất trong số các mỏ khác ở Canada, thể hiện qua giải thưởng của “National Safety Council” (Hội An toàn Quốc gia).
  20. Công nghệ
    Mỏ Britannia nổi tiếng trong lĩnh vực kỹ thuật khai thác và chế biến quặng với công nghệ tiên tiến và tinh thần sáng tạo. Sự cô lập đã thúc đẩy sự tự lập, dẫn đến những nỗ lực liên tục để phát triển các giải pháp tiết kiệm chi phí. Họ tái chế đường ray cũ để làm bóng nghiền và điều chỉnh phương pháp chế biến quặng. Như hệ thống lọc sâu Deep-Cell đã làm tăng gấp ba công suất của Mill 3. Đồng thời, họ chào đón các công nghệ mới và đầu tư vào trang thiết bị hiện đại, giúp Britannia trở thành một trong những mỏ đồng thành công nhất của Canada.
  21. Union (Hội đồng Công đoàn)
    Trong những năm đầu, việc thành lập một Union tại Britannia Mine là một trở ngại. Cuối cùng, vào năm 1943, một Union mới được thành lập dưới sự lãnh đạo của Giám đốc C. P. Browning. Union đã cật lực cải thiện chất lượng an toàn của mỏ. Và vào năm 1958, mỏ Britannia đã nhận được giải thưởng chất lượng an toàn đảm bảo nhất ở Canada. Đồng thời, họ đã cải thiện nguồn nước trong quá trình khoan và giúp giảm thiểu bệnh silicosis.
  22. Sự rộng lớn
    Mặc dù đã đóng cửa vào năm 1974, nhưng mỏ Britannia vẫn là một kỳ quan với quy mô vô cùng lớn. Với 210 kilomet đường hầm và 1750 mét chiều cao, từng là nơi nhà sản xuất đồng lớn nhất trong Đế chế Anh, cung cấp tới 17% lượng đồng thế giới. Nếu toàn bộ quặng được lấy từ mỏ và đặt vào các toa xe lửa, đoàn tàu sẽ phải trải dài hơn 4000 kilomet.
  23. Nước
    Nước đóng vai trò rất quan trọng trong câu chuyện Britannia. Trên đất liền, các dốc núi cao đã cung cấp năng lượng thông qua thủy điện – Britannia có ba đập và một loạt các đường ống dẫn nước. Tuy nhiên, các trận lũ lục thảm khốc từ các con dốc đứng và các con suối chảy siết đã gây thiệt hại cho ngôi làng vào năm 1921 và 1991. Vì Britannia Beach nằm ven biển, một cảng tự nhiên sâu đã làm cửa chính cho lối ra vào của mỏ. Mọi thứ đều được chuyển đến bằng tàu hơi – từ thực phẩm cho đến công nhân, tới tã và dụng cụ, và dĩ nhiên quặng cũng được vận chuyển từ đây đến các nhà máy luyện kim, như ở tiểu bang Washington và Nhật Bản. Nguồn nước đã đóng nhiều vai trò cho cộng đồng, nhưng đáng tiếc, đó là nguồn tài nguyên đã bị tổn thất nhất vì ô nhiễm môi trường từ ARD. Ở các dòng suối địa phương, nguồn nước dưới đất và Vịnh Howe đã bị ô nhiễm nặng nề đến hàng thập kỷ. Nhưng may mắn thay, sau một chiến dịch khắc phục, nước xung quanh Britannia Beach đã được làm sạch.
  24. X-Files
    Mill 3 ở Britannia Beach đã được dựng như một bối cảnh hoàn hảo cho các tập phim của loạt phim khoa học viễn tưởng nổi tiếng The X-Files, bao gồm cả tập “Paper Clip” với việc lưu trữ DNA của con người. Ngoài ra, nhà máy này cũng đã xuất hiện trong các bộ phim khác như “Scooby Doo Two”. Việc cho thuê địa điểm cho các bộ phim tạo ra một nguồn thu nhập quan trọng cho bảo tàng, góp phần vào câu chuyện hấp dẫn về Britannia. Các bộ phim và series khác được quay tại đó bao gồm Smallville, 21 Jump Street, Free Willy III, Dark Angel, và sự xuất hiện của các ngôi sao như Henry Winkler, David Hasselhoff, Sharon Stone, và Robert DeNiro.
  25. Tuổi trẻ tại Britannia
    Trẻ em lớn lên tại Mỏ Britannia đều có một tuổi thơ đáng nhớ. Với nhiều hộ gia đình sinh sống cùng nhau, họ đã kết nối một cộng đồng an toàn. Những đứa trẻ sinh ra và lớn lên tại đây đều được tận hưởng sự tự do. Có nhiều hoạt động dành cho cả thanh thiếu niên và trẻ em nhỏ, bao gồm các buổi khiêu vũ, câu lạc bộ xe hơi, câu lạc bộ ngựa, và các nhóm tổ chức như Cubs và Brownies. Cộng đồng ưu tiên đảm bảo an toàn và phát triển của trẻ em, đảm bảo các em được nuôi dưỡng trong một môi trường lành mạnh.
  26. Kẽm
    Kẽm là một trong những kim loại được sản xuất từ Mỏ Britannia. Khoáng chính là chalcopyrite – sunfua đồng. Kẽm đến từ sphalerite, với sản xuất bắt đầu vào năm 1935 khi thị trường bắt đầu bán kẽm ra. Ngoài ra, mỏ còn sản xuất 17.000 tấn chì (từ galena) và 500 tấn cadmium (một chất tạp của sphalerite). Những kim loại này được chiết xuất tại nhà máy luyện kim từ khoáng chất mẹ của chúng là khoáng sunfua, ví dụ như sunfua đồng là chalcopyrite, sunfua kẽm là sphalerite. Nhưng cũng thu được vàng và bạc tự do – 6.000.000 ounce bạc và 500.000 ounce vàng. Tổng cộng, khoáng sản sản xuất kim loại nặng hơn 800.000 tấn, tương đương với trọng lượng của khoảng 4.000 máy bay jumbo! Mỏ cũng thu được pyrite (sunfua sắt) mà nó bán cho sản xuất axit sunfuric, gang chảy và phân bón.

Đây chỉ là một phần nhỏ thông tin của bảo tàng Mỏ Britannia. Bảo tàng không chỉ là một nơi giữ kỷ niệm về lịch sử, mà còn là một địa điểm giáo dục đầy sáng tạo, nơi mọi người có thể khám phá và hiểu sâu hơn về ngành mỏ và tác động của nó đến môi trường và cộng đồng. Với các hoạt động đa dạng từ tour đến trải nghiệm tự khám phá, Bảo tàng Mỏ Britannia mang lại những trải nghiệm giáo dục sâu sắc và đáng nhớ. Mọi người hãy đăng ký vé trước để để có một chuyến tham quan và trải nghiệm đầy thú vị tại Bảo tàng Mỏ Britannia.

Bài viết được tham khảo tại:

  • National Historic Site Britannia Mine Museum. https://www.britanniaminemuseum.ca/
  • Britannia Mine Museum: A Look Into The Past, Present and Future. Sea to Sky Air. https://www.seatoskyair.ca/squamish/britannia-mine-museum-a-past-present-future
  • Britannia Mines Concentrator National Historic Site of Canada. Government of Canada. https://www.pc.gc.ca/apps/dfhd/page_nhs_eng.aspx?id=49#:~:text=For%20almost%2070%20years%20the,a%20second%20concentrator%20was%20built.
  • Baneet Braich; Ngày 19, Tháng 05, năm 2023; The Britannia mill was an ‘engineering marvel.’ For those who worked there, the site was also home; https://www.cbc.ca/news/canada/british-columbia/britannia-mine-museum-centennial-1.6844454

Share this post

Để lại bình luận

More Posts